áp xe thành sau họng

. thành sau họng nguy hiểm thế nào? Áp-xe thành sau họng được xếp vào nhóm bệnh nhiễm khuẩn vùng cổ sâu. Áp-xe thành sau họng là một bệnh nặng, đe dọa đến tính mạng người bệnh. Tài liệu về Áp xe thành sau họng pdf - Tài liệu , Ap xe thanh sau hong pdf - Tai lieu tại 123doc - Thư viện trực tuyến hàng đầu Việt Nam. Viêm tấy, áp xe amidan hoặc thành họng. Dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như: viêm cầu thận, viêm khớp, viêm màng tim… thậm chí gây ra các tình trạng bệnh nguy hiểm như viêm phổi hoặc ung thư vòm họng. 2. Nguyên nhân viêm họng hạt Từ bến xe Lương Yên: đi bộ 350m đến 18 Nguyễn Khoái, sau đó đón xe bus số 51 (Trần Khánh Dư đi công viên Cầu Giấy),đi qua 3 điểm dừng xe bus và xuống ở điểm Bệnh viện Thanh Nhàn. Khoa khám bệnh – Bệnh viện Thanh Nhàn làm việc từ 8h – 16h30. Áp xe thành sau họng ở người lớn: Nguyên nhân xuất phát từ các chấn thương vùng họng, do dị vật ăn sâu vào thành sau họng hoặc do vi khuẩn đặc hiệu như lao. 3. Triệu chứng bệnh áp xe thành sau họng. Triệu chứng điển hình ở trẻ dưới 2 tuổi bị bệnh áp xe thành sau di daerah dataran tinggi penduduknya mengolah tanah dengan menanami. Nguồn chủ đề Áp xe cạnh họng là một áp xe sâu ở cổ. Các triệu chứng bao gồm sốt, đau họng, nuốt đau và sưng tấy ở cổ đến xương móng. Chẩn đoán bằng CT. Điều trị là kháng sinh và phẫu thuật dẫn cạnh họng họng hàm nằm ngoài cạnh cơ thắt hầu trên và trong cơ chân bướm. Khoang này kết nối với mọi khoang cổ quan trọng khác và được chia thành khoang trước và khoang sau bởi mỏm trâm. Khoang sau chứa động mạch cảnh, tĩnh mạch cảnh trong và nhiều dây thần kinh. Nhiễm trùng ở khoang cạnh họng thường bắt nguồn từ amidan hoặc từ họng, mặc dù có thể xảy ra lây lan cục bộ từ các nguồn do răng và các hạch bạch xe sưng tấy có thể làm tổn thương đường thở. Áp xe khoang sau có thể ăn mòn vào động mạch cảnh hoặc gây viêm tắc tĩnh mạch do nhiễm trùng ở tĩnh mạch cảnh trong hội chứng Lemierre. Các triệu chứng và dấu hiệu của áp xe cạnh họng Hầu hết các bệnh nhân bị áp xe cạnh họng đều bị sốt, đau họng, nuốt đau và sưng tấy ở cổ xuống đến xương móng. Áp xe khoang trước gây cứng hàm và lõm dọc theo góc hàm, kèm theo phình vào trong của amidan và thành bên của họng. Áp xe khoang sau gây sưng tấy nổi rõ hơn ở thành sau họng. Cứng hàm không đáng kể. Áp-xe thành sau có thể liên quan đến các cấu trúc bên trong vỏ động mạch cảnh, có thể gây rét run, sốt cao, vãng khuẩn huyết, thiếu sót thần kinh và xuất huyết ồ ạt do vỡ động mạch cảnh. Chụp CTNghi ngờ áp xe cạnh họng ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng sâu ở cổ khó xác định ranh giới hoặc các triệu chứng điển hình khác và chẩn đoán được xác định bằng CT có ngấm thuốc cản quang. Thuốc kháng sinh phổ rộng ví dụ, ceftriaxone, clindamycinPhẫu thuật dẫn lưuĐiều trị ở bệnh nhân bị áp xe cạnh họng có thể cần phải kiểm soát đường thở. Nhìn chung, cần phải có kháng sinh phổ rộng đường tiêm ví dụ, ampicillin-sulbactam hoặc clindamycin và phẫu thuật dẫn lưu. Áp-xe thành sau được dẫn lưu ra bên ngoài qua hố dưới hàm. Áp xe thành trước thường có thể được dẫn lưu qua đường rạch trong miệng, mặc dù áp xe lớn hơn mở rộng ra ngoài khoang cạnh họng cũng có thể cần phương pháp phẫu thuật bên ngoài. Một vài ngày dùng kháng sinh theo xác định của nuôi cấy qua đường tiêm sau khi dẫn lưu, sau đó là 10 đến 14 ngày dùng kháng sinh đường uống. Đôi khi, áp xe nhỏ có thể được điều trị bằng kháng sinh đường tĩnh mạch đơn thuần. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền. Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ Trần Quốc Tuấn - Trưởng đơn nguyên hồi sức - ICU - Khoa Hồi sức cấp cứu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Phú Quốc Áp xe là tình trạng bệnh rất hay xảy ra trên nhiều bộ phận của cơ thể. Nếu không được điều trị sớm, áp xe sẽ phát triển thành áp xe có mủ gây đau đớn cho người bệnh. Vậy nguyên tắc điều trị áp xe như thế nào, áp xe có mủ chữa ra sao? Áp xe là tình trạng nhiễm trùng ở da, với đặc điểm nhận biết là một khối mềm trên da có màu hồng hoặc đỏ đậm, bên trong khối áp xe có mủ. Nếu dùng tay chạm vào khối áp xe sẽ cảm thấy vị trí thường xuất hiện áp xe làVùng nách, bẹn;Vùng gần hậu môn, âm đạo;Vùng xương cùng cột sống;Áp xe ở nhiên, bất kỳ vị trí nào trên cơ thể cũng đều có khả năng bị áp xe, bên trong cơ thể có áp xe não, áp xe gan, áp xe phổi, áp xe vú, 2. Nguyên nhân gây áp xe là gì? Sự hình thành áp xe diễn ra như thế nào? Nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng áp xe là doCác tuyến bã nhờn, tuyến mồ hôi bị tắc nghẽn;Nang lông bị viêm, nhiễm trùng;Vật nhọn đâm vào da gây ra vết cả những tình trạng này tạo điều kiện thuận lợi để vi khuẩn, vi trùng xâm nhập vào cơ thể. Lúc này, để bảo vệ cơ thể chống lại tác nhân gây nhiễm trùng, hệ miễn dịch kích hoạt các tế bào bạch cầu và những chất hoá học khác để tạo ra đề kháng cho cơ bạch cầu trong cơ thể sẽ được điều động đến nơi bị nhiễm trùng nhằm tiêu diệt vi khuẩn, trong đó những tế bào bạch cầu và vi khuẩn bị chết, tạo thành mủ. Nếu vi khuẩn xâm nhập là tụ cầu vàng và liên cầu khuẩn, thì rất dễ sinh mủ bởi chúng làm tổn thương các tế bào mô trong cơ thể. Từ vị trí đó, khối áp xe có mủ được hình thành và phát triển ra khu vực xung quanh, gây viêm, đau nhức. Nếu không điều trị, khối áp xe sẽ tiếp tục phát triển. Áp xe mưng mủ trên lợi 3. Biểu hiện của áp xe là gì? Trên lâm sàng, khối áp xe ở dưới da và cơ có biểu hiệnSưngTấy đỏĐau nhứcSờ vào thấy ấm nóngSốt cao, có cảm giác ớn lạnhMệt mỏiMôi khô, lưỡi trắng 4. Phương pháp chẩn đoán áp xe là gì? Để chẩn đoán áp xe, ngoài dựa vào biểu hiện lâm sàng, cần tiến hành các kỹ thuật xét nghiệm với kết quả sauSố lượng bạch cầu tăng cao, đặc biệt là bạch cầu trung tính;Tốc độ máu lắng tăng;Số lượng fibrinogen và globulin tăng cao;Nếu có nhiễm trùng huyết, cần tiến hành xét nghiệm cấy vi khuẩn hoặc nấm;Siêu âm được áp dụng đối với khối áp xe sâu bên trong các cơ cơ đùi, cơ thắt lưng, cơ hoành và cơ quan gan, mật, phổi;Chọc khối áp xe có mủ để làm xét nghiệm vi khuẩn gây nhiễm trùng, đồng thời dẫn lưu mủ ra bên ngoài. 5. Nguyên tắc điều trị áp xe Nguyên tắc điều trị áp xe phụ thuộc vào mức độ và độ sâu của khối áp với khối áp xe nhỏ và chỉ ảnh hưởng dưới da, mủ có thể tự chảy ra, khối áp xe co lại, khô dần và biến mất, hoặc dùng với khối áp xe lớn, tích tụ mủ sâu, cần được bác sĩ rạch, chọc và hút dẫn lưu mủ, bơm rửa vệ sinh khối áp xe. Đồng thời kết hợp dùng thuốc kháng sinh, điều trị các triệu chứng đi kèm như sốt, giảm đau và tăng cường thể trạng cho người bệnh. Khám bệnh khi có biểu hiện để điều trị kịp thời Để điều trị áp xe, người bệnh cần đến các cơ sở y tế để được chẩn đoán mức độ, tình trạng của khối áp xe, từ đó các bác sĩ sẽ xử trí điều trị phù hợp. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Cảnh giác biến chứng mắt, đau đầu do viêm xoang Các nguyên nhân gây nhức đầu Chụp cộng hưởng từ tưới máu não Những điều cần biết là trang tin tức tổng hợp chuyên về lĩnh vực giáo dục và các lĩnh vực HOT khác trên thị trường như tin học, xây dựng, y khoa, du lịch, thời trang làm đẹp và SEO & Marketing. Các bác sĩ cần cân nhắc chẩn đoán áp xe thành sau họng cho tất cả bệnh nhân có biểu hiện đau họng, sốt, đau cổ, đau và khó nuốt, sưng vùng thành sau họng. Trước đây bệnh hầu hết chỉ gặp ở trẻ nhỏ, áp xe thành sau họng đang ngày càng phổ biến hơn ở người lớn. Mục lục bài viết1. Hội chứng lâm sàng2. Dấu hiệu và triệu chứng3. Cận lâm sàng4. Chẩn đoán phân biệt5. Điều trị áp xe thành sau họng6. Biến chứng và sai lầm thường gặp7. Kinh nghiệm lâm sàng 1. Hội chứng lâm sàng Trước đây bệnh hầu hết chỉ gặp ở trẻ nhỏ, áp xe thành sau họng đang ngày càng phổ biến hơn ở người lớn. Bệnh có thể là di chứng của nhiễm trùng đường hô hấp trên, chấn thương thành sau họng ví dụ như đặt nội khí quản khó hoặc bị vật lạ đâm thủng và một số các nguyên nhân khác thường bị chẩn đoán sai, áp xe thành sau họng có thể đưa đến những biến chứng đe dọa tính mạng và nếu không được điều trị bệnh nhân có thể tử vong. Tỷ lệ tử vong và tỉ lệ mắc bệnh áp xe thành sau họng chủ yếu do tắc nghẽn đường thở, viêm trung thất, sự lan truyền của nhiễm trùng đến khoang ngoài màng cứng,viêm cân mạc hoại tử, ăn mòn vào động mạch cảnh và ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch có thể gây nhiễm trùng huyết không kiểm soát được. Khoang sau hầu nằm phía sau họng, giới hạn bởi mặt trước đốt sống ở phía sau, mạc miệng hầu ở phía trước, và bao động mạch cảnh ở hai bên. Áp xe thành sau họng Kéo dài từ phía nền sọ đi xuống đến trung thất, khoang sau hầu dễ bị nhiễm khuẩn bởi các vi sinh vật hiếu khí như Streptococus, Staphylococus, Haemophilus và các vi sinh vật kỵ khí như Bacteroides. Hiếm gặp hơn, ở các bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch có thể bị nhiễm nấm hoặc Mycobacteria khoang sau hầu. Bệnh nhân bị áp xe thành sau họng biểu hiện ban đầu với đau họng, cổ và nuốt đau và khó. Đau càng ngày càng dữ dội hơn và khu trú hơn khi khối áp xe to lên và chèn ép các cấu trúc bên cạnh. Sốt nhẹ và những triệu chứng mơ hồ bao gồm khó ở và chán ăn diễn ra đến khi tiến triển thành nhiễm trùng huyết với sốt cao, rét run và ớn lạnh. Vào lúc này, tỷ lệ tử vong liên quan đến áp xe thành sau họng tăng lên đáng kể mặc dù được điều trị tích cực bằng kháng sinh thích hợp và phẫu thuật dẫn lưu ổ áp xe. 2. Dấu hiệu và triệu chứng Bệnh nhân bị áp xe thành sau họng biểu hiện ban đầu với triệu chứng đau không mơ hồ vùng có nhiễm này, bệnh nhân thấy đau ở mức trung bình khi nuốt và khi thực hiện một số vận động. Thăm khám thực thể vào thời điểm này thấy có tình trạng sưng thành sau họng. Có thể sốt nhẹ và đổ mồ hôi đêm. Về mặt lý thuyết, nếu bệnh nhân được dùng steroid, các triệu chứng này có thể giảm nhẹ hoặc tiến triển chậm lại. Khi ổ áp xe to lên, bệnh nhân xuất hiện mệt mỏi nhiều kèm theo sốt, rét run và ớn lạnh. Khi nuốt khó tăng lên, bệnh nhân có thể bị chảy dãi. Có thể có cứng gáy và thở khò khè. Khi nhiễm trùng lan tới trung thất và hệ thần kinh trung ương, tần suất tử vong cũng tăng cao mặc dù điều trị nội khoa tích cực kết hợp điều trị phẫu thuật. 3. Cận lâm sàng X-quang cổ nghiêng cho thấy sự rộng ra của các mô mềm thành sau họng ở hơn 80% bệnh nhân bị áp xe thành sau họng. Khối có tính chất mô mềm rõ ràng với mức khí- dịch gợi ý có ổ áp xe thấy chỉ ít hơn 10% số bệnh nhân. Chụp MRI và CT tốc độ cao có thể đánh giá được tổn thương mà không cần xâm lấn, đồng thời mang lại thông tin chẩn đoán có độ đặc hiệu cao. Cả MRI và CT đều rất chính xác trong chẩn đoán áp xe thành sau họng và nên được chỉ định cấp cứu trên tất cả các bệnh nhân nghi ngờ apxe. Tất cả các bệnh nhân nghi ngờ áp xe thành sau họng nên kiểm tra tổng phân tích tế bào máu, tốc độ máu lắng và sinh hoá máu tự động. Xét nghiệm protein C phản ứng có thể có ích, do mức protein-C phản ứng tăng cao thì tỷ lệ bệnh tật và tỷ lệ tử vong cao hơn. Cấy máu và nước tiểu nên chỉ định ngay lập tức ở những bệnh nhân có nghi ngờ để bổ dung kháng sinh trong khi chờ đợi các kết quả khác. Nhuộm gram và cấy vi khuẩn ổ áp xe cùng cần được thực hiện nhưng không được trì hoãn kháng sinh chờ đợi các kết quả này. 4. Chẩn đoán phân biệt Chẩn đoán phân biệt áp xe thành sau họng cân nhắc kỹ ở những bệnh nhân có biểu hiện đau họng, sốt, đau cổ, đau và khó nuốt, sung thành sau họng, đặc biệt nếu bệnh nhân có tiền sử chấn thương khoang sau hầu. Các bệnh lí thường bị nhầm lẫn với áp xe thành sau họng Phù mạchĂn, uống phải chất có tính ăn mònÁp xe ngoài màng cứng vùng cổÁp xe dưới màng cứng vùng cổViêm sụn nắp thanh quảnViêm thực quảnDị vật trong thực quảnDị vật trong hầu họngDị vật trong khí quảnBệnh KawasakiViêm trung thấtViêm màng nãoTăng bạch cầu đơm nhận Nhiễm trùng răng miệngSốt ở trẻ emÁp xe quanh amidalViêm họngViêm xoangNhiễm nấm candida Các triệu chứng thể tạng liên quan tới nhiễm trùng nặng có thể suy yếu ở những bệnh nhân đã được dùng steroid hoặc người có suy giảm miễn dịch ví dụ như hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, các bệnh lý ác tính. Cần bắt đầu điều trị nhanh chóng áp xe thành sau họng để tránh được tỷ lệ tử vong và tần suất bệnh cho bệnh nhân. Điều trị áp xe thành sau họng được hướng tới hai mục tiêu Điều trị nhiễm trùng với khánh sinhDẫn lưu ổ áp xe để giảm sự chèn ép các cấu trúc lân cận bao gồm cả đường thở. Do nhiều trường hợp áp xe thành sau họng nguyên nhân do Staphylococus aureus, điều trị kháng sinh ban đầu nên bao gồm vancomycin để điều trị nhiễm trùng do Staphylococus. Kháng sinh bao phủ vi khuẩn gram âm và kỵ khí cũng nên được bắt đầu theo kinh nghiệm ngay lập tức sau khi lấy mẫu cấy máu và nước tiểu. Liệu pháp kháng sinh có thể được thay đổi dựa vào kết quả nuôi cấy và kháng sinh đồ. Như đã đề cập, điều trị kháng sinh không nên trì hoãn để chờ chẩn đoán xác định nếu đã nghi ngờ áp xe thành sau họng như một phần của chẩn đoán phân biệt. Kháng sinh đơn độc hiếm khi thành công trong điều trị áp xe thành sau họng trừ khi đã chẩn đoán được nguyên nhân gây bệnh từ rất sớm; phẫu thuật dân lưu ổ áp xe là cần thiết để phục hồi hoàn toàn. Chú ý bắt buộc phải kiểm soát đường thở ở những bệnh nhân nghi ngờ bị áp xe thành sau họng, đặt nội khí quản sớm để kiểm soát đường thở tốt hơn là đợi đến khi các biến chứng hô hấp xảy ra. Chụp lại CT và MRI có tác dụng theo dõi sự tiêu giảm của ổ áp xe thành sau họng. Các chẩn đoán hình ảnh này nên được thực hiện lại ngay lập tức khi xuất hiện các dấu hiệu đầu tiên báo hiệu diễn biển lâm sàng đang xấu đi ở bệnh nhân. 6. Biến chứng và sai lầm thường gặp Chẩn đoán và điều trị áp xe thành sau họng không kịp thời và thiếu chính xác có thể dẫn đến thảm hoạ cho cả bệnh nhân và bác sĩ. Khởi phát âm thầm các biến chứng đường thở liên quan đến áp xe thành sau họng có thể “ru ngủ” các bác sĩ theo một chiều hướng an toàn giả; sai lầm trong việc nhận ra sự lan tràn của nhiễm trùng vào hệ thống thần kinh trung ương có thể dẫn đến tổn thương thần kinh kéo dài. Nếu nghi ngờ áp xe thành sau họng các bác sĩ có thể đi theo hướng dẫn Ngay lập tức cấy máu và nước lập tức cho kháng sinh liều cao bao vây Staphylococus lập tức tiến hành các kĩ thuật hình ảnh để phát hiện tinh trạng chèn ép tuỷ sống, như áp xe, khối u và nguyên nhân X – quang tủy sốngHội chẩn khẩn cấp với bác sĩ phẫu thuật cột sốngTiếp tục và cẩn thận theo dõi tình trạng thần kinh của bệnh nhânNếu không có điều kiện thực hiện các bước trên, chuyển cấp cứu bệnh nhân lên tuyến trên bằng phương tiện vẫn chuyển nhanh nhất có hiện lại chụp lại phim và hội chần phẫu thuật lại nếu có bất kì diễn biến thần kinh xấu nào xảy ra cho bệnh nhân. 7. Kinh nghiệm lâm sàng Sự chậm trễ trong chẩn đoán sẽ đặt bệnh nhân và bác sĩ vào nguy cơ khủng khiếp dẫn đến một kết cục tồi tệ. Các bác sĩ cần cân nhắc chẩn đoán áp xe thành sau họng cho tất cả bệnh nhân có biểu hiện đau họng, sốt, đau cổ, đau và khó nuốt, sưng vùng thành sau họng, cho đến khi đã chứng minh được các biểu hiện đó là do một tình trạng bệnh lí khác và điều trị phù hợp. Quá tin tưởng vào một kết quả hình ảnh Âm tính đơn độc là một sai lầm. Nên chụp lại MRI hoặc CT cho những bệnh nhân có các dấu hiệu lâm sàng diễn biến xấu đi. 5 2 đánh giá Article Rating Áp xe là gì? Áp xe là tên gọi của một tổ chức viêm nhiễm, khu trú thành một khối mềm, bên trong chứa đầy mủ cấu tạo từ vi khuẩn, xác bạch cầu và các mảnh vụn. Áp xe dễ dàng được nhận diện trên lâm sàng với các đặc điểm sau là một khối mềm, lùng nhùng, da vùng áp xe thường nóng, đỏ, sưng nề, chạm vào thấy đau. Một số triệu chứng khác có thể thấy trên lâm sàng tùy thuộc vào vị trí của các ổ áp xe. Áp xe có thể hình thành ở khắp các vùng trên của cơ thể. Chia làm 2 nhóm chính Áp xe ở mô dưới da ổ mụn nhọt, hậu bối là hình thái phổ biến nhất. Vị trí thường gặp nhất là nách do lỗ chân lông bị nhiễm trùng, âm đạo do các tuyến ở cửa âm đạo bị nhiễm trùng, da vùng xương cùng cụt gây nên áp xe nếp lằn mông, quanh răng gây nên áp xe răng. Áp xe bên trong cơ thể các ổ áp xe thỉnh thoảng hình thành bên trong cơ thể, ngay tại mô của các cơ quan như áp xe gan, áp xe não, áp xe thận, áp xe vú,… hoặc tại khoảng kẻ giữa chúng. Nhiễm trùng là nguyên nhân trực tiếp phổ biến nhất gây ra áp xe. Các tác nhân nhiễm trùng gây bệnh bao gồm Vi khuẩn vi khuẩn xâm nhập vào mô dưới da hoặc các tuyến bài tiết, gây nên phản ứng viêm, hoạt hóa các chất hóa học trung gian và các tế bào bạch cầu. Sự tắc nghẽn chất tiết của các tuyến mồ hôi, tuyến bã là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập và phát triển. Quá trình hệ miễn dịch cơ thể chống lại vi khuẩn sinh ra một chất lỏng gọi là mủ, chứa nhiều vi khuẩn và xác bạch cầu. Staphylococcus aureus là loại vi khuẩn chiếm tỷ lệ cao nhất ở nhiều khu vực trên thế giới, gây áp xe dưới da, áp xe màng cứng cột sống. Ký sinh trùng tác nhân này thường gặp ở các nước đang phát triển hơn, có thể kể đến các loại như giun chỉ, sán lá gan, giòi,… Chúng thường gây áp xe bên trong các tạng của cơ thể như áp xe gan do sán lá gan. Biểu hiện lâm sàng của áp xe khá đặc hiệu, bao gồm Áp xe nông dưới da quan sát thấy một khối phồng, da bao phủ lên ổ áp xe đỏ, sưng nề vùng da xung quanh, khi sờ vào có cảm giác nóng, đau, lùng nhùng do chứa mủ bên trong. Triệu chứng đau gặp trong áp xe là do áp lực trong khối áp xe tăng. Khi nhiễm trùng lan rộng ra các mô sâu hơn, người bệnh có thể có sốt, mệt mỏi. Áp xe bên trong cơ thể được phân loại áp xe sâu. Bệnh nhân gặp phải có triệu chứng toàn thân như sốt cao, rét run, ớn lạnh, môi khô, lưỡi bẩn. Toàn thân mệt mỏi, suy kiệt, hốc hác. Tùy theo vị trí của ổ áp xe, trên lâm sàng có thể gặp phải các triệu chứng khác như sốt cao rét run, đau tức vùng hạ sườn phải trong áp xe gan. Áp xe có thể được lây truyền do tác nhân gây bệnh lây lan từ người bệnh sang người lành. Đường lây truyền cụ thể thay đổi tùy theo từng nguyên nhân cụ thể. Những người có các đặc điểm sau có khả năng hình thành các khối áp xe cao hơn những người khác Điều kiện sống thiếu vệ sinh Thường xuyên tiếp xúc với người bị nhiễm trùng da Người gầy còm, suy kiệt, sức đề kháng kém Nghiện rượu, ma túy Mắc các bệnh như đái tháo đường, ung thư, AIDS, viêm loét đại tràng, bệnh Crohn Các bệnh về máu như bệnh hồng cầu hình liềm, bệnh bạch cầu Chấn thương nặng Sử dụng corticoid kéo dài, các thuốc tiêm tĩnh mạch Đang trong liệu trình hóa trị Áp xe có thể được phòng ngừa bằng các biện pháp sau Nâng cao, cải thiện môi trường sống Giữ gìn vệ sinh cá nhân tốt Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng Thường xuyên luyện tập thể dục thể thao Xây dựng lối sống lành mạnh, tăng cường hệ miễn dịch Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, đặc biệt sau khi tiếp xúc với người bệnh hoặc chất thải của người bệnh. Không lạm dụng rượu và sử dụng ma túy Tuân thủ điều trị tốt các bệnh lý nhiễm khuẩn, các bệnh lý toàn thân như đái tháo đường Đến gặp bác sĩ khi có các triệu chứng bất thường, không được tự ý điều trị, tránh để tổn thương lan rộng và nặng nề hơn. Chẩn đoán áp xe mô dưới da thường được thực hiện dễ dàng thông qua việc thăm khám lâm sàng với các biểu hiện sưng, nóng, đỏ, đau vùng da che phủ khối áp xe. Đối với áp xe bên trong cơ thể hay áp xe nội, các triệu chứng lâm sàng như sốt cao, rét run, đau tức vùng chứa khối áp xe chỉ mang tính chất gợi ý. Việc chẩn đoán xác định cần có sự hỗ trợ của các xét nghiệm cận lâm sàng và phương tiện chẩn đoán hình ảnh, bao gồm Công thức máu bạch cầu tăng cao, ưu thế bạch cầu đa nhân trung tính Xét nghiệm thể hiện phản ứng viêm trong cơ thể tốc độ lắng máu, fibrinogen và globulin tăng cao. Định lượng Protein C phản ứng CRP là một xét nghiệm có độ chính xác cao, cho phép phát hiện tình trạng viêm, nhiễm trùng trong cơ thể sớm hơn. Cấy máu dương tính Siêu âm rất có ích trong các trường hợp áp xe sâu như áp xe ở gan, mật, cơ đùi, cơ thắt lưng CT scan, MRI phát hiện hình ảnh các ổ áp xe ở các cơ quan như áp xe gan, phổi Chọc dò dịch, hút mủ làm xét nghiệm Sinh thiết tổn thương Chẩn đoán áp xe mô dưới da thường được thực hiện dễ dàng thông qua việc thăm khám lâm sàng với các biểu hiện sưng, nóng, đỏ, đau vùng da che phủ khối áp xe. Đối với áp xe bên trong cơ thể hay áp xe nội, các triệu chứng lâm sàng như sốt cao, rét run, đau tức vùng chứa khối áp xe chỉ mang tính chất gợi ý. Việc chẩn đoán xác định cần có sự hỗ trợ của các xét nghiệm cận lâm sàng và phương tiện chẩn đoán hình ảnh, bao gồm Công thức máu bạch cầu tăng cao, ưu thế bạch cầu đa nhân trung tính Xét nghiệm thể hiện phản ứng viêm trong cơ thể tốc độ lắng máu, fibrinogen và globulin tăng cao. Định lượng Protein C phản ứng viêm, nhiễm trùng trong cơ thể sớm hơn. Cấy máu dương tính Siêu âm rất có ích trong các trường hợp áp xe sâu như áp xe ở gan, mật, cơ đùi, cơ thắt lưng CT scan, MRI phát hiện hình ảnh các ổ áp xe ở các cơ quan như áp xe gan, phổi Chọc dò dịch, hút mủ làm xét nghiệm Sinh thiết tổn thương CRP là một xét nghiệm có độ chính xác cao, cho phép phát hiện tình trạng Một tổ chức áp xe nếu không được điều trị sẽ tiến triển nặng dần lên với tăng kích thước, đau nhiều hơn, xâm lấn rộng ra các mô xung quanh, cuối cùng có thể vỡ. Áp xe ở mô dưới da có thể vỡ ra da và chảy mủ ra bên ngoài, một số trường hợp còn tạo ra đường dò, phá hủy một vùng mô sâu rộng, gây khó khăn cho việc điều trị sau này. Các khối áp xe trong cơ thể cũng có thể vỡ vào ổ phúc mạc, gây viêm phúc mạc khu trú hoặc toàn thể, nặng hơn có thể dẫn tới nhiễm trùng máu. Việc điều trị áp xe phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là phân loại áp xe nông hay áp xe mô dưới da và áp xe sâu bên trong các cơ quan. Đối với các ổ áp xe mô dưới da, biện pháp điều trị hiệu quả là rạch dẫn lưu mủ ra ngoài. Một số nghiên cứu chứng minh việc sử dụng kết hợp thêm với thuốc kháng sinh không mang lại hiệu quả. Khi hết chảy dịch, bác sĩ có thể chèn gạc để cầm máu và băng vết thương. Một số các trường hợp áp xe nông nhỏ có thể tự chảy dịch và khô lại mà không cần can thiệp gì. Thuốc giảm đau thông thường như paracetamol, aspirin có thể được chỉ định ở các bệnh nhân nhạy cảm. Đối với các ổ áp xe sâu, can thiệp ngoại khoa như rạch, dẫn lưu ổ áp xe cần phối hợp với thuốc kháng sinh. Thuốc kháng sinh nên được sử dụng theo kết quả kháng sinh đồ, sử dụng sớm và đủ liều. Việc rạch dẫn lưu mủ thường được thực hiện dưới sự hướng dẫn của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh như siêu âm. Điều trị các triệu chứng như sốt, đau và nâng cao thể trạng, bù nước và điện giải cũng cần được tiến hành song song. Cần loại bỏ dị vật bên trong ổ áp xe nếu có. Xem thêm Những điều cần biết về xét nghiệm công thức máu Áp xe vú Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị Áp xe hậu môn Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

áp xe thành sau họng